Hình ảnh các địa danh thăm quan, du lịch nổi tiếng ở Hưng Yên

1. ĐỀN CHỬ ĐỒNG TỬ

ĐỀN CHỬ ĐỒNG TỬ
ĐỀN CHỬ ĐỒNG TỬ ĐỀN CHỬ ĐỒNG TỬ ĐỀN CHỬ ĐỒNG TỬ ĐỀN CHỬ ĐỒNG TỬ

Đức Thánh Bất tử Chử Đồng Tử và Nhị phu nhân – Công chúa Tiên Dung, Tây nương Hồng Vân công chúa – những vị thần y đầu tiên cứu khổ cứu nạn cho những người dân Việt buổi đầu dựng nước. Theo Phật giáo Việt Nam - Chử Đồng Tử cũng là phật tử đầu tiên của đất Việt.

Xem thêm

Tương truyền, Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại thôn Chử Xá, xã Văn Đức (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), ven sông Hồng. Nhà nghèo, 2 cha con chỉ còn lại một chiếc khố, phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ lấy chiếc khố. Thương cha, Chử Đồng Tử liệm khố cho cha, còn mình chịu cảnh không khố, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền để bán cá hoặc xin ăn. Thời ấy, Hùng Duệ Vương (vị vua Hùng thứ 18) có con gái tên là Tiên Dung, thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm, thuyền rồng của Tiên Dung theo sông Hồng đến vùng ven sông gần Chử Xá. Nghe tiếng huyên náo, Chử Đồng Tử vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bãi cát ven sông để tắm. Ngờ đâu đúng ngay chỗ nấp của Chử Đồng Tử. Nước xối để lộ thân hình Chử Đồng Tử. Tiên Dung kinh ngạc, hỏi han, nghĩ ngợi, rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng. Hùng vương nghe chuyện thì cả giận và cấm Tiên Dung về cung. Biết ý cha, Tiên Dung ở lại cùng Chử Đồng Tử. Cả hai làm nghề buôn bán. Việc buôn bán không chỉ trong vùng, mà còn được hai vị mở rộng dọc sông Hồng và lập ra các đoàn thuyền buôn vượt biển ra nước ngoài. Trên đường buôn bán, Chử Đồng Tử gặp gỡ nhiều hiền tài của thiên hạ và học hỏi được vô số điều. Khi trở về, Chử Đồng Tử lập bến cảng, mở chợ đầu mối…Từ đó vùng này chở nên tấp nập, phồn thịnh, (là khởi đầu cho việc hình thành tuyến giao thương Kẻ Chợ, Thăng Long - Phố Hiến, Hưng Yên sau này). Đoàn thuyền buôn của Chử Đồng Tử to lớn, lộng lẫy như cung điện hoàng gia. Ai cũng thần phục Chử Đồng Tử. Không chỉ là một thương gia giàu có, Chử Đồng Tử cùng Tiên Dung còn đi khắp nơi truyền bá những tri thức đã học được từ thiên hạ cho mọi người, từ triết lý về cuộc sống, cách thức chữa bệnh đến ngành nghề mới…Trong giai đoạn này, Chử Đồng Tử gặp và kết duyên với Tây Nương, người được vua Hùng gia phong là " Nội trạch Tây cung Tiên nữ – Hồng Vân công chúa", vì đã chữa khỏi bệnh hiểm nghèo cho vua. Chuyện tình đầy ý nghĩa của Tiên Dung - Chử Đồng Tử - Tây Nương Ai cũng biết chuyện Tiên Dung bất chấp địa vị công chúa để lấy chàng trai nghèo không mảnh vải che thân Chử Đồng Tử. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết câu chuyện diễn ra sau đó. Sau khi kết nghĩa vợ chồng, Tiên Dung và Chử Đồng Tử mở ra bến chợ, lập phố xá rồi cùng dân trong vùng buôn bán. Lâu dần khu chợ ấy trở thành chợ lớn (nay là chợ Thám, còn gọi là chợ Hà Lương). Sau này, họ cùng nhau đi bốc thuốc chữa bệnh cho người dân ở khắp mọi nơi và được tôn thờ, nể trọng hết mực với danh xưng đức thánh Chử cùng Tiên Dung công chúa. Chung chồng vì nghĩa lớn Trong một lần đi chữa bệnh cho người dân, Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung bất ngờ gặp một người con gái xinh đẹp đang cắt lúa bên đường, nên bèn tới hỏi chuyện. Thấy nàng có nhan sắc tuyệt trần, bản tính hiền lành mà phong thái đối đáp thông minh, Tiên Dung tỏ ra mến phục và kết nghĩa chị em. Theo tài liệu mà cụ Nguyễn Văn Để, thủ từ Đền Hóa cung cấp, được dịch từ bản khắc phả chữ Nho bằng gỗ thị của Nguyễn Hiền dưới thời Lê và bản sao của Ngô Chân Nguyễn Tử năm 1899, thì người con gái "sắc nước hương trời" ấy chính là Hồng Vân công chúa, tên thường gọi là Tây Nương. Tương truyền rằng, mẹ nàng nằm mơ thấy một con chim xanh lớn bay vào màn rồi hóa thành người con gái. Tiếp đó, một nữ nhân xuất hiện và tự xưng là "Tây cung vương mẫu từ thiên đình giáng xuống, đem con xuống gửi nhà người cõi trần trong vòng 36 năm". Từ đó bà thụ thai, đến ngày mùng 10/2 âm lịch năm sau thì sinh hạ một người con gái và đặt tên là Tây Nương. Về chuyện tình tay ba của công chúa Tiên Dung, việc nàng "kết tóc se duyên" cho em gái kết nghĩa Tây Nương cùng phu quân của mình là hoàn toàn tự nguyện. Nàng cho đó là hợp ý trời, lại vừa ý người nên chẳng hề đắn đo, do dự. Từ ấy, họ đã cùng nhau đi khắp muôn nơi để bốc thuốc chữa bệnh cho dân chúng. Cũng theo bản phả ghi lại thì cùng năm đó, vua Hùng Duệ Vương - cha ruột của công chúa Tiên Dung bị mắc bệnh nặng đến mức không ngự y nào có thể chữa khỏi được. Biết Tây Nương giỏi việc chữa bệnh bằng Đông y, Tiên Dung đã nhờ nàng đóng giả làm bà lang vào cung chữa cho vua cha. Sau khi khỏi bệnh, Hùng Duệ Vương có ý định mang vàng bạc, châu báu để tạ ơn vị nữ thần y tài giỏi. Tuy nhiên, Tây Nương nhất mực không nhận mà quyết định quay về chung sống với Chử Đồng Tử và Tiên Dung, đồng thời tiếp tục hành nghề y để cứu giúp những người dân nghèo quanh vùng. Nghe tin về sự thần phục của dân đối với Chử Đồng Tử, Hùng Vương, từ vùng núi Phong Châu (Phú Thọ), cho quân tìm tới. Đến nơi, trời tối, quân nhà vua đóng ở bên này sông, thấy bên kia sông là một quần thể cung điện đèn đuốc sáng rực; đến sáng ra, thì không còn. Đoàn thuyền của Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân đã ra biển hay hóa đến một nơi nào đó trên trời, để lại đầm nước mênh mông. Quan quân sợ quá về tâu. Hùng Duệ Vương đến tận nơi xem, kinh hãi và truyền lập đền thờ, bốn mùa cúng tế. Đền thờ Chử Đồng Tử và Nhị vị phu nhân hóa Thánh được người dân gọi là đền Hóa; Bãi Chử Đồng Tử và Tiên Dung kết duyên gọi là bãi Tự Nhiên; Đầm (làm cảng) nơi đoàn thương thuyền rời đi trong một đêm gọi là đầm Nhất Dạ Trạch; Chợ đầu mối trên sông gọi là Hà Thị. Tương truyền, đức thánh Chử - công chúa Tiên Dung và nàng Tây Nương đã cùng nhau "tam vị đồng thăng", bay về trời sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình nơi trần thế. Để ghi nhớ công tích của ba vị, dân trong cả vùng hạ lưu sông Hồng, như Hưng Yên, Hà Nội, Hà Nam đã lập đền thờ. Hưng Yên là nơi có nhiều đền nhất, tới 45 làng cùng thờ. Có hai ngôi đền nổi tiếng nhất thờ Đức Thánh Chử Đồng Tử là đền Đa Hòa và đền Dạ Trạch. Đền Ða Hoà, còn gọi là đền Chính Đa Hòa (theo tên chữ Đa Hòa Chính từ), đền Chử Đồng Tử, thuộc địa phận thôn Đa Hoà, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, bên dòng sông Hồng nhìn ra bãi Tự Nhiên nơi Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung. Đền Đa Hòa tồn tại từ thời xa xưa. Các nhà buôn mỗi lần đi qua đây đều dừng thuyền khấn cầu Chử Đồng Tử phù hộ. Theo truyền thuyết, ngôi đền nhỏ, cheo leo trên bờ sông dựng đứng, song ngày đêm tấp nập khách thập phương lễ bái. Trên cơ sở ngôi đền cổ xưa, năm 1894, tiến sĩ Chu Mạnh Trinh, người làng Phú Thị, Gia Lâm đã xây dựng ngôi đền mới khang trang. Đền Đa Hòa ngày nay nằm trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng hình chữ nhật, có diện tích hơn 1,8ha. Đền hướng về phía Tây, sang bãi Tự Nhiên ven sông Hồng. Đền Đa Hòa gồm Nghi môn ngoại, Sân ngoài, Nghi môn nội, Chính điện và công trình phụ trợ với tổng cộng 18 tòa. Từ dưới sông nhìn lên, các tòa nhà như những con thuyền nối tiếp nhau trong một đoàn thuyền. Nghi môn ngoại là giới hạn không gian khu vực bên ngoài đền, không có tường rào bao quanh. Nghi môn ngoại gồm 2 trụ biểu lớn, đỉnh trụ trang trí tứ phượng; thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, phía dưới trang trí câu đối. Đế của cả 2 trụ biểu thắt dạng cổ bồng. Hai bên trụ là hai bức tường thấp. Phía trước Nghi môn ngoại là khoảng sân rộng thông ra Nhà bia nằm cạnh bờ sông Hồng. Nhà bia là một tòa 2 tầng mái, 8 mái. Trên mái Nhà bia có có dòng chữ do tự tay tiến sĩ Chu Mạnh Trinh viết: “Trấn giang lầu”. Tấm bia trong lầu gi lại cuộc nhân duyên giữa Chử Đồng Tử - Tiên Dung và quá trình trùng tu đền Đa Hòa. Sau Nghi môn ngoại là sân phía trước Nghi môn nội, có tường thấp bao quanh. Hai bên sân có hai Lầu chuông (bên phải) và Lầu khánh (bên trái). Hai lầu đặt trên bệ cao khoảng 1m so với mặt sân, tường xây gạch, mái 2 tầng, 8 mái. Sân lát gạch và nhiều cây cổ thụ. Chuông đặt trong Lầu chuông cao 1,5m. Khánh bằng đá trong Lầu khánh có chiều ngang 1,2m.

Nguồn tham khảo: http://www.didulich.net

Ẩn bớt tin

2. ĐỀN MẪU

ĐỀN MẪU
ĐỀN MẪU ĐỀN MẪU ĐỀN MẪU

Đền Mẫu Hưng Yên là một danh thắng nằm trong Quần thể di tích Phố Hiển nức tiếng Bắc Bộ. Lâu nay, ngôi đền này luôn được xem là địa chỉ du lịch tâm linh độc đáo, là chốn ước nguyện linh thiêng để cầu mong những điều may mắn đến với gia đình, người thân.

Xem thêm

Đền Mẫu Hưng Yên còn được gọi với cái tên khác là Hoa Dương Linh Tử thuộc phường Quang Trung, Thành phố Hưng Yên. Từ Thủ đô Hà Nội di chuyển đến đền Mẫu chỉ đi khoảng 60 – 64km. Theo kinh nghiệm du lịch Hưng Yên thì với khoảng cách này du khách có thể sử dụng ô tô hoặc xe máy để đến tham quan Đền trong ngày.
Đền Mẫu là nơi thờ bà Dương Quý Phi, vị hoàng hậu cuối cùng của triều Tống Trung Quốc. Đây được xem là điểm đặc biệt hiếm thấy ở các ngôi đền cổ của người Việt thể hiện tình cảm đoàn kết của nhân dân hai nước Việt Trung. Theo sử sách ghi lại thì đền Mẫu Hưng Yên được xây dựng vào năm 1278, lúc đầu chỉ có một gian thờ Dương Quý Phi. Đền Mẫu được xây trên thế “ngọa long” hòa cùng cảnh hồ bán nguyệt trên đê sông Hồng tạo nên một thế đứng “Sơn Diễu Thủy” êm ả, hiền hòa.
Tương truyền theo lời kể của Ngọc Phả - vợ vua Tống Đế Bính. Vào năm 1279 khi quân Nguyên xâm lược nước Tống, hoàng đế cùng hoàng thân quốc thích đã xuống thuyền chạy trốn về phương Nam. Trên đường bỏ chạy họ đã bị Trường Hoằng Phạm, 1 vị tướng của nhà Nguyên bắt lại được. Trải qua quá trình tra khảo, vua cùng các vị phi tần không chịu khuất phục nên đã tự nhảy xuống biển để tuẫn tiết. Sau đó xác của bà Dương Quý Phi đã dạt vào bãi cát được nhân dân chôn cất và lập đền thờ.
Đền Mẫu Hưng Yên được tọa lạc trên một vùng đất rộng khoảng 3000m2. Tuy đã trải qua nhiều thời kì tu sửa nhưng đến với ngôi đền này du khách vẫn cảm nhận được sự cổ kính lâu đời còn vương lại trên từng mái ngói, bức tường hay những pho tượng. Hiện nay trong đền Mẫu vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật văn hóa có giá trị cao như: phụng kiều, 2 kiệu long đình, long kiều, 2 lọ lộc bình, 2 bộ bát bửu, 2 bát hương to,... cùng nhiều hoành phi, câu đối, đại tự, đạo sắc phong.
Kiến trúc của đền Mẫu Hưng Yên bao gồm nhiều lớp. Phần nghi môn của Đền được xây dựng khá đẹp theo lối kiến trúc chồng diêm hai tầng tám mái, cửa xây vòm cuốn bao gồm hai cửa phụ và một cửa chính. Ở trên vòm cuốn có bức đại tự được ghép bằng các mảnh gốm lam ghi dòng chữ: “Dương Thiên Hậu – Tống Triều”.
Qua phần sân Đền bạn sẽ tới được tòa tiền tế 2 gian với kiến trúc 2 tầng 8 mái, phần mái uốn cong uyển chuyển kiểu rồng chầu, ngói lợp vẩy rồng. Ở chính điện có đắp lưỡng long chầu nguyệt mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt. Hai bên đại bái là cung Quảng Hàn và điện Lưu Ly. Theo kể lại thì tại trung tâm Tiền Tế của đền Mẫu có bức châm viết bằng chữ vàng của tiến sỹ Chu Mạnh Trinh viết vào năm 1896. Bức châm này ca ngợi cảnh đẹp của Đền và tấm lòng trinh tiết của Thánh Mẫu. Cũng ngay tại gian Tiền Tế được đặt cỗ kiệu bát cống in đậm dấu ấn nét điêu khắc thời Hậu Lê. Hầu hết các đường nét ở trên kiệu đều khắc rất tinh xảo, tỉ mỉ.
Đi qua tòa Tiền Tế là bạn sẽ đến Hậu cung, nơi đây đặt tượng thờ Dương Quý Phi với nét mặt đôn hậu, bên cạnh đó còn có hai người hầu là Liễu Thị và Kim Thị. Tất cả tượng thờ đều được sơn son thiếp vàng. Gian thờ dưới ánh sáng mờ ảo của đèn nến, phảng phất một chút khói hương lan tỏa mang tới một không khí tĩnh lặng và linh thiêng cho du khách ghé tới chiêm bái.

Nguồn tham khảo: https://luhanhvietnam.com.vn

Ẩn bớt tin

3. CHÙA HIẾN

CHÙA HIẾN
CHÙA HIẾN CHÙA HIẾN CHÙA HIẾN CHÙA HIẾN

Chùa Hiến Hưng Yên nằm tại trung tâm của phố Hiến, thuộc khu di tích nổi tiếng và trở thành điểm du lịch tâm linh nổi bật thu hút hàng vạn lượt khách mỗi năm về tham quan, chiêm bái.

Xem thêm

Chùa Hiến (Thiên Ứng tự) là một ngôi chùa cổ nằm ở đường Phố Hiến, P. Hồng Châu, TX Hưng Yên. Chùa nằm trong quần thể di tích phố Hiến sầm uất một thời. Được biết, chùa Hiến là nơi dựng lên để thờ Phật và Quan Âm Nam Hải với ý nghĩa khuyên răn con người sống hướng thiện, tích thiện, tích đức.
Nhiều thuyền buôn đến đây cầu nguyện để mọi chuyện được thuận buồm xuôi gió. Theo truyền miệng của nhiều du khách thì khi đến đây xin bình an, may mắn thì người thân trong gia đình khỏe mạnh, công việc làm ăn cũng hanh thông hơn.
Chùa Hiến Hưng Yên có phong cách kiến trúc thời Hậu Lê với tổng thể gồm: Tiền đường, Nghi môn, Hậu đường, hai dãy Hữu Vu, Tả Vu, nhà Mẫu, nhà Tổ. Với lối kiến trúc độc đáo và linh thiêng, chùa Hiến ngày nay nổi tiếng là chốn thanh tịnh thu hút nhiều du khách thập phương đến tham quan, cúng bái khi về với Phố Hiến.
Nếu bạn đang tìm kiếm một không gian thanh tịnh, yên bình để tìm lại cảm giác thảnh thơi trong lòng thì đừng ngần ngại ghé đến chùa Hiến. Chắc chắn rằng bạn sẽ buông bỏ được hết những mệt mỏi, âu lo tồn tại trong tâm trí bấy lâu nay.
Hàng năm cứ vào ngày 10 tháng 3 tại chùa Hiến Hưng Yên diễn ra lễ hội truyền thống thu hút nhân dân địa phương và du khách phương xa về tham gia.
Tương truyền rằng, chùa Hiến được xây từ đời Trần, vua Trần Thái Tông (1232 - 1250) do vị quan Tô Hiến Thành hưng công xây dựng. Đến năm 1625 và 1709 chùa đã được trùng tu lại. Trải qua những thăng trầm và các đớt tu sửa, vào năm 1992, chùa Hiến đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Đến năm 2012, chùa được ghi danh thêm một kỷ lục nữa là ngôi chùa có cây nhãn tổ đầu tiên tại Việt Nam.

Nguồn tham khảo: https://chùamộtcột.vn

Ẩn bớt tin

4. VĂN MIẾU XÍCH ĐẰNG

VĂN MIẾU XÍCH ĐẰNG

Một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu có giá trị là văn miếu Xích Đằng tại phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, biểu tượng về học vấn của nền văn hiến Hưng Yên.

Xem thêm

Văn miếu Xích Đằng là một trong 6 văn miếu còn tồn tại trong cả nước- được khởi dựng từ thế kỷ 17 (thời hậu Lê) quy mô ban đầu còn nhỏ, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), triều Nguyễn, được xây dựng lại có quy mô như hiện nay trên nền của chùa Nguyệt Đường. Ngôi chùa lớn, tương truyền có 36 nóc, được Hương Hải thiền sư khởi dựng năm 1701, với sự trợ giúp của quan trấn thủ trấn Sơn Nam khi đó là Quận công Lê Đình Kiên.
Dấu tích còn lại đến ngày nay là 2 mộ tháp đá: Phương Trượng Tháp và Tịnh Mãn Tháp. Năm 1992, Văn miếu Xích Đằng được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá quốc gia.
Đây là nơi thờ Khổng Tử, người được mệnh danh là “ người thày tiêu biêu của muôn đời" và Chu Văn An, thày giáo mẫu mực của nước
Nam ở triều Trần.
Toàn bộ khuôn viên Văn miếu có diện tích rộng gần 6 ha, nhìn ra hướng nam, phía trước là đầm Vạc, bên cạnh phía tây là hồ Văn. Nhìn toàn cảnh kiến trúc công trình đồng bộ và liền mạch, gồm các hạng mục được bố trí liên hoàn như: tam quan, nhà tả vu, nhà hữu vu, tòa đại bái, trung từ và tòa hậu cung.
Từ điển Địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam của Nguyễn Như Ý và Nguyễn Thành Chương ghi rõ: văn miếu Xích Đằng là một trong 6 văn miếu còn tồn tại cho đến ngày nay của đất nước, là một trong hai văn miếu lâu đời nhất (đứng sau văn miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội) còn tồn tại.
Khi đến thăm văn miếu Xích Đằng, qua hồ Văn, đầm Vạc được trang điểm bởi đặc sản Hưng Yên là nhãn và sen, quang cảnh đầu tiên mà ta gặp là hình ảnh quen thuộc với sự hiện diện của 2 cây gạo cổ thụ hàng trăm năm tuổi, đứng trước tam quan, hay còn gọi là Nghi môn. Đây là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác.
Hai bên tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương trước đây.
Thay vì lầu trống như ở các Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội hay Văn miếu Mao Điền, của Hải Dương, thì ở Văn miếu Xích Đằng, lầu trống được thay vào bằng lầu chuông và lầu khánh. Tiếng chuông và tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh đá của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ 18.
Qua Nghi môn, phía trong cổng là sân rộng, ở giữa sân là đường thập đạo, hai bên sân ngoài lầu chuông và lầu khánh là 2 dãy tả vu, hữu vu. Hai dãy nhà này hiện được dùng để trưng bày các hình ảnh và hiện vật liên quan đến giáo dục và các di tích lịch sử của tỉnh Hưng Yên.
Khu nội tự văn miếu có kết cấu kiến trúc kiểu chữ Tam, bao gồm: tiền tế, trung từ và hậu cung, kiến trúc giống nhau, được làm theo kiểu vì kèo trụ trốn. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”. Mặt chính quay về hướng nam. Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, câu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ cột, kèo được sơn son thếp vàng. Ngoài các đồ thờ tự, hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc ghi tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa. Trong đó có 138 vị quê Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.
Thế kỷ 17, để chấn hưng lại nền Nho học, triều đình đã cho thành lập nhiều trường học bên ngoài trường Quốc Tử Giám. Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) văn miếu Sơn Nam (văn miếu Xích Đằng khi đó) được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn. Sử sách còn ghi: Văn miếu Xích Đằng đã có lần là trường thi của khoa thi Hương, hoặc là nơi sát hạch học trò để đi thi Hương. Nhà bác học Lê Quý Đôn, đã dự kỳ thi hương ở Hưng Yên hồi ấy”
Sau nhiều biến chuyển trong việc chia tách lại địa lý và đơn vị hành chính các trấn dưới các triều: Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn, văn miếu Xích Đằng trở thành văn miếu của trấn Sơn Nam và sau này là của tỉnh Hưng Yên.
Từ các khoa thi đầu tiên đến khoa thi cuối cùng vào cuối thời nhà Nguyễn của nền học vấn phong kiến trước đây, tỉnh Hưng Yên đều có người đỗ đạt cao. Thời nào cũng có người tài của đất Hưng Yên đỗ đạt ra giúp nước. Trong đó có những dòng họ hiếu học và đỗ đạt cao như: Dòng họ Dương ở xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm, dòng họ Lê Hữu ở Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, dòng họ Nguyễn Trung ở Thổ Hoàng, huyện Ân Thi.v.v. Học vị cao nhất được ghi danh ở các bia đá còn lưu lại là trạng nguyên Tống Trân, thời nhà Trần; trạng nguyên Nguyễn Kỳ, triều nhà Mạc; trạng nguyên Dương Phúc Tư, triều nhà Lê. Chức vụ cao nhất được biết đến là tiến sĩ Lê Như Hổ, quận công triều nhà Mạc…
Ngay từ khi được xây dựng vào thế kỷ 17 dưới thời Lê và đến hết thời nhà Nguyễn sau này, văn miếu Xích Đằng là nơi tổ chức các kỳ thi, bái tế các bậc hiền nho vào mỗi dịp “xuân thu nhị kỳ” hằ̀ng năm như: ngày mùng 10 tháng giêng và 14 tháng 8 âm lịch, các chức sắc đầu tỉnh và nho sinh của toàn trấn Sơn Nam và tỉnh Hưng Yên sau này tổ chức tế lễ, đồng thời thi bình văn.
Nối tiếp truyền thống của vùng đất hiếu học và văn hiến, sau ngày tái lập tỉnh Hưng Yên năm 1997, văn miếu Xích Đằng tiếp tục là nơi hàng năm diễn ra các hoạt động văn hóa, giáo dục trọng đại và có ý nghĩa của thành phố Hưng Yên và của tỉnh Hưng Yên như: các hoạt động thư pháp, hát ca trù đầu xuân, tổ chức ngày thơ Việt Nam, vinh danh và phát thưởng cho học sinh đỗ đạt cao, có thành tích học tập tốt.
Ở văn miếu Hưng Yên hiện tại đang thờ hai pho tượng của Đức Khổng Tử và các bậc chư hiền nho gia. Cùng với đó là pho tượng của người thầy giáo lỗi lạc, người hiệu trưởng đầu tiên của văn miếu Quốc Tử Giám Chu Văn An. Khác với cách bài trí của các văn miếu khác, ở văn miếu Hưng Yên, tượng Chu Văn An được đặt thờ ngay ở phía giữa khu đại bái, còn tượng Đức Khổng Tử và các vị chư hiền nho gia được đặt thờ trong phần hậu cung. Điều này cho thấy sự kính trọng, vinh danh tấm lòng, đức độ người thầy lỗi lạc muôn đời của nền giáo dục Việt Nam mang tên Chu Văn An.
Trải qua hàng trăm năm tồn tại, văn miếu Hưng Yên vẫn luôn là biểu tượng của tinh thần hiếu học và nền văn hiến Hưng Yên, trở thành địa chỉ quen thuộc của du khách gần xa khi đến thăm Phố Hiến. Đó cũng là niềm tự hào của mỗi người con xứ nhãn khi được sinh ra, lớn lên trên quê hương văn hiến, cách mạng anh hùng.

Nguồn tham khảo: http://thanhphohungyen.gov.vn

Ẩn bớt tin

5. PHỐ NỐI

PHỐ NỐI

Phố Nối là một địa điểm du lịch tại Huyện Yên Mỹ (Tỉnh Hưng Yên thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng). Cách trung tâm Tỉnh Hưng Yên khoảng 35 km.

Xem thêm

Phố Nối của Hưng Yên nổi danh với khu di tích của đại danh y Lê Hữu Trác cùng nhiều chùa đình mang kiến trúc độc đáo như chùa Lãng (chùa Lạng) ở thôn Như Lãng, Minh Hải, Văn Lâm; chùa Thái Lạc ở Lạc Hồng, huyện Văn Lâm; đền thờ danh tướng Lý Thường Kiệt ở huyện Yên Mỹ; đền Ủng ở huyện Ân Thi; đình Đa Ngưu ở huyện Văn Giang và khu tưởng niệm cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Ngoài chiêm bái đền chùa, đến với Phố Nối du khách còn được tham quan làng nghề đúc đồng, chạm bạc, hay làng nghề làm tương Bần…

Nguồn tham khảo: https://dulichdiaphuong.com

Ẩn bớt tin

6. LÀNG NÔM

LÀNG NÔM
LÀNG NÔM LÀNG NÔM LÀNG NÔM LÀNG NÔM

Tồn tại hơn 200 năm tuổi, làng Nôm Hưng Yên hôm nay vẫn đang là một “báu vật quý giá” được người dân địa phương trân trọng và gìn giữ. Trước mọi áp lực bộn bề của cuộc sống, khó có nơi nào đem đến đầy đủ dư vị bình yên như làng Nôm vậy. Hình ảnh cây đa, bến nước, các công trình kiến trúc hay nếp sống sinh hoạt của con người vẫn luôn nguyên vẹn sau hàng trăm năm.

Xem thêm

Làng Nôm thuộc địa phận xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, chỉ cách thủ đô Hà Nội 20km. Đây là một ngôi làng cổ được rất nhiều du khách ghé đến để tìm kiếm những nét đẹp xưa của miền quê Bắc Bộ. Nơi đây gắn liền với những cánh đồng lúa xanh bát ngát hay những ngôi nhà cổ có lịch sử vài trăm năm.
Bước qua cánh cổng làng, du khách sẽ thật sự bất ngờ trước một khung cảnh làng quê dường như bước ra từ trong trang sử. Đó là hình ảnh của cây đa, cầu đá hay nhịp sống thân thương thấm đẫm tình người.
Ngay ở trung tâm làng có một hồ nước rộng và trong, ở hai bên là những hàng cau được trồng thẳng tắp. Đặc biệt, xung quanh hồ còn có rất nhiều các kiến trúc nhà cổ, nhiều đền thờ của các dòng tộc lớn nghiêng mình soi bóng bên mặt hồ. Hiện nay theo sổ sách cả làng chỉ còn khoảng hơn 10 ngôi nhà cổ và 7 nhà thờ họ.
Theo các bậc tiền bối của làng Nôm thì không biết tên làng được gọi từ lúc nào, chỉ biết rằng ngày xưa lúc trai gái dựng vợ gả chồng đều phải cung tiến 20 mâm đồng, vài chục mét đường gạch đỏ cho làng. Đó cũng là những gì còn lại khi được nghe kể về lịch sử hình thành của làng. Được biết, đình làng cũ được xây dựng từ thời Hậu Lê, sau đó được xây dựng trùng tu bề thế hơn vào thời Nguyễn.
Một điều gây ấn tượng rất mạnh đối với du khách khi ghé đến làng Nôm Hưng Yên đó chính là nơi đây đang lưu giữ rất nhiều di tích cổ có niên đại hàng chục đến hàng trăm năm. Từ cổng làng, đường đi đến bức tường đều còn nguyên dạng. Về đây, du khách sẽ có cảm giác như hàng trăm năm qua chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi. Cho dù thời gian có trôi qua bao lâu đi chăng nữa thì những giá trị tinh túy nguyên sơ nhất vẫn không hề thay đổi.
Toàn bộ làng Nôm Hưng Yên là một thể thống nhất bao gồm cổng làng, ao làng, nhà cổ, cầu đá và chợ quê. Xung quanh nơi đây vẫn có đó những rặng tre cao vút kẽo kẹt gió lay. Từng ngõ ngách của làng đều in đậm dấu ấn hồn quê, đó là những con đường gạch đỏ, là bờ rào duối hiếm hoi, là những dãy bờ tường cũ kỹ,.. Ngày nay, cơn lốc đô thị hóa đều len lỏi đến hầu hết mọi vùng quê nhưng làng Nôm vẫn hiên ngang ở đó với những giá trị lịch sử không bao giờ bị mài mòn.
Không quá khi khẳng định rằng tại làng Nôm Hưng Yên cái gì cũng cổ. Từ cột đá, giếng nước, đến kiến trúc đều có lịch sử ít nhất là 200 năm. Dọc bên ao làng, chính những ngôi nhà cổ hay nhà thờ tổ nối tiếp đan xen nhau đã tạo nên một vẻ đẹp hưng thịnh và toát lên nét văn hóa độc nhất ở nơi đây. Có rất nhiều du khách rất thích được tham quan các ngôi nhà ở làng Nôm bởi cho dù đã được hình thành từ rất lâu nhưng các công trình này luôn để lại những dấu ấn vượt thời gian khó phai mờ.
Điểm nhấn độc đáo nhất của làng Nôm Hưng Yên có lẽ chính là cây câu đá chín nhịp bắc qua sông Nguyệt để sang chợ Nôm. Cây cầu rộng khoảng 2m, được chạm trổ hình đầu rồng và ghép từ những phiến đá xanh nguyên khối. Phần chân và dầm cầu đã có niên sử hơn 200 năm.
Đến làng Nôm Hưng Yên, du khách không chỉ thấy được nét đẹp xưa cũ qua các kiến trúc cổ hay hình ảnh cây đa, bến nước mà còn cảm nhận được qua nét sinh hoạt của người dân. Từ cách ăn mặc đến lối sống đều vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.

Nguồn tham khảo: https://luhanhvietnam.com.vn

Ẩn bớt tin

7. ĐỀN PHƯỢNG HOÀNG

ĐỀN PHƯỢNG HOÀNG

Đền Phượng Hoàng hay còn được người đân nơi đây gọi với cái tên quen thuộc - Đền Cúc Hoa. Đền được xây dựng trên mảnh đất Phượng hoàng của thôn Phù Oanh, xã Minh Tiến, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Vào năm 1991 đền được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia.

Xem thêm

Mảnh đất có hình chim Phượng hoàng này được người dân chọn để xây dựng đền Cúc Hoa với mong muốn mọi sự tốt đẹp đến với huyện Phù Cừ và cũng là nơi để tưởng nhớ nàng Cúc Hoa tài sắc vẹn toàn, một lòng chung thủy, lo toan cho chồng từ lúc chồng của nàng – Tống Trần chưa đỗ Trạng Nguyên. Nàng còn là một người con hiếu thảo với bậc phụ mẫu.
Chính vì những đức hạnh đáng quý này của Cúc Hoa mà khi nàng mất, người dân nơi đây mới lập đền thờ để tưởng nhớ nàng và hằng năm cứ đúng vào ngày 1-3 tháng 3 âm lịch, người dân lại tổ chức hội đền Phượng Hoàng.
Đền Phượng Hoàng được thiết kế không đồ sộ, không cầu kỳ nhưng vẫn toát lên được vẽ thanh tĩnh, linh thiêng của ngôi đền.

Nguồn tham khảo: https://bandidau.com

Ẩn bớt tin

8. HỒ BÁN NGUYỆT

HỒ BÁN NGUYỆT
HỒ BÁN NGUYỆT HỒ BÁN NGUYỆT HỒ BÁN NGUYỆT

Khác xa với nhịp sống tấp nập, bon chen của phố thị, hồ Bán Nguyệt Hưng Yên hiện lên như một nét chấm phá tĩnh lặng, bình yên. Đến đây chắc chắn du khách muôn phương sẽ bị thu phục bởi không khí trong trẻo cùng vẻ đẹp lãng mạn của hồ.

Xem thêm

Hồ Bán Nguyệt được xem là trái tim vàng của vùng đất Hưng Yên. Đây là một danh thắng mà ai ai ở đây cũng biết đến. Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên nằm ngay trung tâm phố Hiến, giáp đường Bạch Đằng, phía Tây Nam là đê sông Hồng, phía Đông nằm cạnh đường Bãi Sậy. Từ trung tâm thành phố bạn sẽ di chuyển khoảng tầm 1km là đến đây.
Đặt chân đến Hưng Yên mà ghé qua hồ Bán Nguyệt, du khách sẽ được hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên thanh bình, hít hà bầu không khí trong trẻo. Lúc này đây dường như mọi mệt mỏi dường như tan biến, chỉ còn lại những khoảnh khắc bình yên đúng nghĩa.
Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên không chỉ thơ mộng mà còn nằm ngay ở một vùng đất linh thiêng có nhiều miếu, đình, chùa, đền. Trong đó ngay ven hồ có hai điểm đến tâm linh nổi tiếng được nhiều du khách ghé thăm mỗi khi về phố Hiến đó chính là đền Mẫu và đền Trần. Hai địa danh này mang nhiều dấu ấn lịch sử soi bóng mình bên mặt hồ Bán Nguyệt tĩnh lặng.
Ngay từ cái tên, nhiều du khách đã hình dung ra được hình dáng của hồ Bán Nguyệt Hưng Yên. Nơi đây giống hệt một vầng trăng khuyết vô cùng ấn tượng. Vẻ đẹp của hồ được hiện lên một cách sống động và dân giã trong từng câu thơ, lời hát, trong bao tác phẩm nghệ thuật tài hoa. Đến hồ Bán Nguyệt Hưng Yên, bạn sẽ được thỏa thích vùng vẫy trong bầu không khí trong lành, bình yên để rồi đọng lại những cung bậc xúc cảm khó quên.
Hồ Bán Nguyệt sở hữu dòng nước lững lờ trôi yên ả, không gian tĩnh lặng tạo nên một khung cảnh vô cùng nên thơ, dễ chịu. Hồ Bán Nguyệt lúc đầu là một đoạn của sông Hồng còn sót lại sau khi đổi dòng. Người dân ở đây ví hồ chính là một mảnh gương của Hằng Nga rớt xuống trần gian.
Hồ dù không được thông với bất cứ đâu nhưng luôn đầy ắp nước trong vắt. Một bên là phố phường, một bên là đê sông Hồng cùng các thảm cỏ xanh mướt đã trở thành chốn lui về quen thuộc của những tâm hồn mong manh. Nếu bạn đang tìm kiếm một không gian yên tĩnh với những mảng thiên nhiên xanh ngát ở Hưng Yên thì hồ Bán Nguyệt là địa điểm khó bỏ qua.
Xung quanh hồ Bán Nguyệt có nhiều loại xây xanh, loài nào cũng vươn mình rủ bóng xuống mặt hồ phẳng lặng. Mỗi khi có cơn gió thổi qua, các hàng cây đung đưa mới thấy thật mộc mạc biết bao. Ngay giữa hồ có cột cờ với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Được biết cột cờ cao 10m. Đây chính là điểm nhấn đặc biệt giữa mặt hồ bình yên.
Du khách khi tham quan hồ Bán Nguyệt Hưng Yên có thể dừng chân nghỉ ngơi tại các ghế đá. Ngồi đây ngắm cảnh, tận hưởng gió mát. Đi dọc hồ bạn hãy thả hồn vào làn gió, nghe nước chảy nhè nhẹ, lúc này cảm tượng đó là một bản nhạc thật thanh bình. Trong nhịp sống hối hả như hiện tại thì khi đến đây thời gian như lắng đọng lại, con người cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn.
Hồ Bán Nguyệt Hưng Yên là nơi diễn ra nhiều sự hiện văn hóa, lễ hội thường niên. Thời Pháp thuộc, chúng đã cho xây đắp con đường nhỏ nối từ cửa đền Mẫu sang điếm canh chia đôi hồ để triển khai hoạt động chèo thuyền giải trí trong những giờ nghỉ. Sau cách mạng tháng Tám thành công, con đường đã bị phá bỏ trả lại nét đẹp nguyên sơ cho hồ. Năm 1905, tổng đốc Lê Hoan tổ chức thi vịnh Kiều ngay ở hồ có sự tham gia của Chu Mạnh Trinh và Nguyễn Khuyến.
Ngày nay, các lễ hội như: lễ hội đền Trần, đền Mẫu, lễ hội dân gian phố Hiến,... cùng các hoạt động lớn như: ca nhạc chào mừng tách tỉnh Hưng Yên, hát quan họ, bắn pháo hoa, thi bơi, đua thuyền,... Tất cả đều được tổ chức tại hồ Bán Nguyệt.

Nguồn tham khảo: https://luhanhvietnam.com.vn

Ẩn bớt tin

KHUNG ẢNH YÊU THÍCH